Đoạn thơ trên đây của Chế Lan Viên là một tiếng lòng được nâng lên thành một triết lí đẹp: Hạnh phúc khi được gặp lại nhân dân. Bốn câu thơ, câu nào cũng có hình ảnh đẹp, mới lạ biểu lộ một cá tính sáng tạo sắc sảo, tài hòa. Qua đó, ta mới thấm thía như một nhà thơ lớn phương Tây đã nói: “Câu thơ đẹp phải là câu thơ nói được một tình cảm đẹp”.

Tôi rất yêu thích vần thơ của thi sĩ Chế Lan Viên nói về “hương nhân ái":

Đóa hoa sen mặt đất tỏa hương trời

Hương nhân ái thấm vào hồn ta mãi.

Tôi cũng vô cùng thú vị mỗi lần nghe ai đó nhắc lại đoạn thơ này của ông:

                                        Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

                                        Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng.

                                        Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

                                        Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

Năm 1960, tập thơ Ánh sáng và phù sa ra đời, một bước tiến mới về tư tưởng và nghệ thuật của Chế Lan Viên. Bài thơ Tiếng hát con tàu nói lên tình yêu Tây Bắc và khát vọng lên đường đi đến mọi chân trời mơ ước để hiến dâng và sáng tạo. Bài thơ gồm có 3 phần:

1- Tiếng gọi lên đường;

2- Nỗi nhớ Tây Bắc;

3- Khúc hát lên đường.

Đây là khổ thơ thứ 5 trích trong phần 2 bài Tiếng hát con tàu nói lên niềm hạnh phúc to lớn được gặp lại nhân dân:

           Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

     Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

 Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

          Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

Tư tưởng gặp lại nhân dân là một tư tường đẹp. Tư tưởng ấy được cụ thể hóa. hình tượng hóa bằng năm hình ảnh ẩn dụ so sánh vừa mới lạ, vừa giàu chất thơ Câu thơ “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ” là một so sánh độc đáo. Mùa đông tàn tạ. đàn nai đi kiếm ăn ở rừng xa. Nay mùa xuân đến, đàn nai trở về “suối cũ” mảnh đất đã bao đời gắn bó thân thiết yêu thương. “Nai về suối cũ” là sự thể hiện tình nghĩa thủy chung ở đời như “con gặp lại nhân dân”, được sống trong lòng nhân dân. Một chữ “con” dùng rất tinh tế, đã thể hiện một tình cảm chân thành, ấm áp. Đọc lên, ai cũng cảm thấy có mình trong đó.

Câu thơ “Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa” mở ra trong lòng ta bao liên tướng đẹp. Ba tháng mùa đông, cỏ cây tàn tạ xơ xác úa vàng. Giêng hai đem hơi ấm mùa xuân cho vạn vật; cỏ trở nên xanh mướt, tốt tươi. Mùa xuân là mùa của sắc cỏ. “Phương thảo liên thiên bích” (Cổ thi); “Cỏ non xanh tận chân trời" (Truyện Kiều). Mùa xuân cũng là mùa của chim én: “Ngày xuân con én đưa thoi” (Nguyễn Du). Én gặp mùa xuân để kết đàn, sinh sôi nảy nở... Chữ “đón’’ (cỏ đón giêng hai), chữ “gặp" (chim én gặp mùa) diễn tả niềm hạnh phúc được hồi sinh, phát triển, trở nên tươi đẹp. Lấy thế giới cỏ cây, chim muôn để nói về niềm vui sướng hanh phúc khi “con gặp lại nhân dân” là một cách nói thấm thía, đậm đà. Cánh én và sắc cỏ mùa xuân trong thơ Chế Lan Viên lúc nào cũng đẹp và đáng yêu:

Tháng giêng, hai xanh mượt cỏ đồi

     Tháng giêng, hai vút trời bay cánh én.

(Ý nghĩa mùa xuân)

Còn gì vui sướng hơn, hạnh phúc hơn khi “Đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, khi “Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa?’’ Dòng sữa ngọt ngào cũng là tình thương của mẹ nuôi dưỡng trẻ thơ. Cánh tay của mẹ, của bà... nhẹ đưa khi “chiếc nôi ngừng”..., đã nâng giấc ngủ bé thơ. Giấc ngủ êm đềm trong lời ru tiếng hát, trong tình yêu thương. Mẹ và bà đã đến với em thơ trong sự khát khao, mong đợi. Và đó cũng là niềm vui hạnh phúc được sống trong tình yêu thương như khi “con gặp lại nhân dân”.

Ý tưởng con gặp lại nhân dân được thể hiện một cách phong phú, đa dạng. Gặp lại nhân dân là được sống trong hạnh phúc, trong tình nghĩa thủy chung. Là được tiếp thêm sức sống, sức mạnh mà trở nên tươi tốt, sinh sôi, phát triển. Là được sống trong tình thương san sẻ, vỗ về, được thỏa nỗi chờ mong.

Đoạn thơ trên thể hiện rõ bút pháp nghệ thuật của Chế Lan Viên: giàu tính triết lí và vẻ đẹp trí tuệ. Triết lí mà không khô khan, vì nhà thơ đã sáng tạo nên nhiều hình ảnh đẹp, mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. Ý tưởng đẹp, hồn thơ đẹp cứ quyện lấy lòng ta.

Tư tưởng yêu nước và “thân dân” được thể hiện cảm động đó đây trong thơ ca dân tộc từ mấy trăm năm trước. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, tư tưởng vĩ đại ấy đã được một số nhà thơ như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... nói lên một cách chân thành, thấm thía và sâu sắc hơn:

      Con chim biết nhớ đàn nhớ tổ,

     Ta nhớ người đau khổ nuôi ta

Ơn người như mẹ như cha

                Lòng dân yêu Đảng như là yêu con...

(Tố Hữu)

                                      Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi

                                      Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu

                                      Tôi sống với cuộc đời. chiến đấu

                                      Của triệu người yêu dấu gian lao

(Xuân Diệu)

Đoạn thơ trên đây của Chế Lan Viên là một tiếng lòng được nâng lên thành một triết lí đẹp: Hạnh phúc khi được gặp lại nhân dân. Bốn câu thơ, câu nào cũng có hình ảnh đẹp, mới lạ biểu lộ một cá tính sáng tạo sắc sảo, tài hòa. Qua đó, ta mới thấm thía như một nhà thơ lớn phương Tây đã nói: “Câu thơ đẹp phải là câu thơ nói được một tình cảm đẹp”.

dapandethi.vn