Dàn ý
I/ Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu đoạn trích:
“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
...
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về chương “Đất Nước”, đoạn thơ :
-Nêu hoàn cảnh sáng tác, nội dung trường ca “Mặt đường khát vọng” …
-Nêu kết cấu trường ca “Mặt đường khát vọng” , vị trí , nội dung, bố cục đoạn trích “Đất Nước”, vị trí đoạn thơ ở đề bài.
-Nêu ý chính của đoạn thơ : Cảm nhận của tác giả về đất nước nhìn từ góc độ hiện tại.
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
a/ Hai câu thơ đầu : tác giả khẳng định ( trích thơ): đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người.
b/ Bốn câu thơ tiếp , tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước ( trích thơ)
- Bốn câu thơ liên kết theo mối quan hệ nhân – quả . Đặt vào hoàn cảnh lịch sử năm 1971 tác phẩm ra đời để giải thích
- Khẳng định: có tinh thần đoàn kết, dân tộc sẽ có một đất nước thống nhất, vẹn toàn.
c/ Ba câu thơ tiếp: diễn tả về tương lai của đất nước. ( trích thơ):
- Cách nói ẩn dụ: “mai này” khi đất nước không còn giặc ngoại xâm, không còn chiến tranh, thế hệ sau sẽ “gánh vác phần người đi trước để lại”.
- Nhà thơ đã gợi ra trách nhiệm của thế hệ hôm nay: phải thức tỉnh, phải đoàn kết để đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời, tác giả đặt niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đặt niềm tin vào thế hệ sau.
d/ Bốn câu thơ cuối : nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người ( trích thơ)
-Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm.
- Nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước.
III/ Kết bài :
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ, liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa đoạn thơ.
Bài mẫu
Bài tham khảo số 1
Bài làm
Mặt đường khát vọng là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về Đất Nước và nhân dân. Trong bài Có một thời đại mới trong thi ca, Trần Mạnh Hảo viết:
“Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện dại hóa bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
Đất Nước - là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng dài 110 câu thơ (trong “Văn 12” chi trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai (47 câu), cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước trên bình diện về địa lí, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. vẻ đẹp độc đáo của chương V “Đất nước" là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hóa dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục..., cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.
12 câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương Đất Nước thế hiện cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt Nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
(..)
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ Đất Nước và Nhân dân đều được viết hoa, trở thành “mĩ tự" gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng diệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm
Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lí về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,... Đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.
Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước” được diễn đạt một cách “miền hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người' từ “hôm nay” đến “mai sau”.
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn - Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tố ấm gia đình đã xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần...
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em của bao lứa đôi khác.
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Giang Nam)
Nói về cội nguồn của dòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất những ai bây giờ” từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
Khi chứng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay" có nghĩa là giao duyên là yêu thương. “Khi chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào. . Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có thể có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao", và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, ”Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liẻng 'Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”... “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”... “Đất Nước vẹn tròn, to lởn”. Cách diễn đạt uyển chuyển , sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc gia đình tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thông “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.
Đất Nước “nguồn thiêng ông cha”, Đất Nước “Trong anh và em hôm nay”. Đất Nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kì vọng sáng ngời niềm tin:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Những Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam... đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Ngay Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải cũng có một giọng điệu “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước ông cha "Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta "Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
“Em ơi em” — một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất Nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, là mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha, là của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
Nuôi lớn người tù ngày mở đất,
Bốn ngàn năm năm gai nếm mật
Một tấc lòng củng đẩy hồn Thánh Gióng.
(Bài thơ của một người yêu nước mình 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biêu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ... Phải biết hóa thân..." thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn dời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca Mặt dường khát vọng ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mĩ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó", “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức manh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ" như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đậm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà,ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)
Trở lại đoạn thơ trên đây cùa Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất Nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất Nước và tiền đồ tươi sáng cùa dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình in đậm tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cám xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu tính suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình...” - một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem "trí lực” để xây dựng Đất Nước, “Làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất Nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn". Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam mai này con ta lớn lên...”.
Xem bài tham khảo khác tại đây:
dapandethi.vn