Dàn ý
1, Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
+ Phạm Tiến Duật: phong cách sáng tác, tác phẩm tiêu biểu
+ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính": hoàn cảnh sáng tác, nội dung bài thơ
- Giới thiệu về ba khổ thơ cuối của bài thơ:
+ Trích dẫn ba khổ thơ
+ Nêu qua nội dung của ba khổ thơ
2, Thân bài
a, Khổ 3: Vẻ đẹp cuẩ người lính được thể hiện qua cái nhìn lạc quan, yêu đời trước hiện thực cuộc chiến đấu còn nhiều gian khổ.
- "Không có kính...khô mau thôi"
+ Nghệ thuật: Những câu thơ ghi nhân một cách chân thực khắc nghiệt mà các anh phải chịu đựng khi bom đạn kẻ thù đã giật, rung, tàn phá tấm kính chắn xe. Hơi thở nhẹ nhàng như lời nói chuyện, mà là chuyện vui, chuyện thường ngày vẫn xảy ra với các anh, không hề khiến các anh phải bận tâm. Nhịp thơ mạnh,, dứt khoát. Các cụm từ "chưa cần rửa", "chưa cần thay" không chỉ đem đến cảm giác về sức trẻ dồi dào mà còn hé mở một điều đáng nể phục ở người lính: với các anh nhiệm vụ là trên hết còn những thứ khác không đáng bận tâm.
+ Liên hệ: bài "Nhớ"
=> Những con người như vậy tất nhiên càng không chỉ vì cái chuyện cái mặt hay lấm mà làm chậm cuộc hành trình "Tất cả vù tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt".
b, Khổ 4: Tình đồng chí, đồng đội
- "Những chiếc xe...kính vỡ rồi"
+ Nghệ thuật: hình ảnh giàu sức gợi, nhịp thơ 2/2/3
+ Nội dung: Niềm vui sum họp được mở ra sau chặng đường chạy dưới mưa bom đạn của kẻ thù.
c, Khổ cuối: Tình yêu quê hương, đất nước
- "Không có kính...một trái tim"
+ Nghệ thuật: điệp từ "không"
+ Nội dung: Vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ: trẻ trung, lạc quan, dù hiểm nguy vẫn chắc tay lái đương đầu ra tiền tuyến.
* Liên hệ với lí tưởng sống của tuổi trẻ trong thời đại ngày nay
- Giải thích: lí tưởng sống là gì?
- Chứng minh:
+ Nguyễn Ngọc Ký, Jack ma
- Bình luận:
+ Cuộc sống thật vô bổ nếu không có lí tưởng sống
+ Lí tưởng sống sẽ là động lực giúp bạn vươn lên trong cuộc sống.
- Liên hệ bản thân
3, Kết bài
- Khẳng định giá trị của bài thơ
- Tình cảm dành cho bài
Bài mẫu
Từ mái trường Đại học Hà Nội, Phạm Tiến Duật bước vào đời lính chiến đấu và hoạt động trên con đường chiến lược Trường Sơn những năm tháng đánh Mỹ ác liệt nhất. Lửa khói chiến trường, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ lái xe dũng cảm... in dấu chói lọi, kỳ vĩ như những tượng đài trong thơ Phạm Tiến Duật.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong “Vầng trăng quầng lửa” những bài ca chiến trận thấm đẫm màu sắc lãng mạn. Ba khổ cuối bài thơ ghi lại cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính, ca ngợi tình đồng đội và lý tưởng chiến đấu cao cả của những chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh:
Những chiếc xe từ trong bom rơi ...
Chí cần trong xe có một trái tim.
Sau những tháng ngày chiến dịch chở vũ khí lương thực... chi viện cho tiền phương, vượt qua hàng nghìn hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, tiểu đội xe không kính “đã về đây... " Một cái bắt tay thắm tình bè bạn, tình đồng chí:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiều đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính, nhưng mỗi thời một khác. Anh Vệ Quốc quân trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp:
Miệng cười buốt giá
Thương nhau tay nắm lấy bàn tav.
(Đồng chí - Chính Hữu, 1948)
Anh Giải phóng quân trên đường chiến dịch, gặp bè bạn đồng đội “ bắt tay qua cửa kính vỡ rồi". Tình thương yêu đồng chí đồng đội là bản chất, là sức mạnh của người lính không hề thay đổi. Từ cái “nắm lấy bàn tay ” đến cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là một quá trình trưởng thành và hiện đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc và đất nước.
Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính ngăn ngủi mà thắm tình đồng chí, tình đồng đội, thể hiện qua ba chi tiết nhưng rất điển hình: “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa’’, "võng mắc chông chênh”. Đời lính vốn giản dị, bình dị mà lại rất sang trọng. Giữa chiến trường đầy bom đạn mà họ vẫn đàng hoàng “Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có một hát canh rau rừng, có lương khô... thế mà rất đậm đà: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Một chữ “chung" rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương.
“Thơ là nữ hoàng nghệ thuật", có người đã nói như vậy. Nếu thế, thì ngôn từ là chiếc áo của nữ hoàng. Hai chữ “nghĩa là” chỉ dùng để “đưa đẩy” nhưng dưới ngòi bút của những tài thơ đích thực thì nó trở nên óng ánh, duyên dáng, đậm đà. Với Xuân Diệu, mùa xuân, tuổi trẻ thật đẹp, thật đáng yêu, một đi không trở lại:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất...
(Vội vàng - 1938)
Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết chiến đấu và hy sinh vì một lý tưởng cách mạng cao đẹp thì hận, nhục, tranh đâu là lẽ sống thiêng liêng:
Tôi chưa chết nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!.
(Tâm tư trong tù - 1939)
Và Phạm Tiến Duật, 1969, tình đồng đội cũng là tình anh em ruột thịt, vô cùng thân thiết:
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Có yêu thơ mới tìm đến thơ. Tìm đến thơ, một phần là tìm đến ngôn từ chữ nghĩa. Thơ đâu là chuyện “nhai câu nhá chữ” (chữ dùng của Cao Bá Quát). Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ. Chỉ qua hai chữ “nghĩa là", ta đủ thấy nhà thơ trẻ rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh, cảnh đoàn viên tri kỷ: “võng mắc chông chênh đường xe chạy". Sau một bữa cơm thân mật, một vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương vẫy gọi:
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Điệp ngữ "lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những dựng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan hy vọng.
Là hy vọng, là chiến công đang đón chờ. Đây là một đoạn thơ thể hiện sinh hoại vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mỹ, rất độc đáo mà ta ít gặp trong thơ thời ấy:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
2. Khổ cuối bài thơ nói lên suy nghĩ của tác giả về tiểu đội xe không kính. Chiếc xe đầy thương tích, chiến tích. Không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe bị xước. Chiếc xe vận tải quân sự mang tầm vóc những anh hùng lẫm liệt vô danh. “Không” mà lại "có”, có "một trái tim” của người lính. Trái tim rực lửa, sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc:
Không có kính rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cấn trong xe có một trái tim.
Các điệp ngữ "không có", các từ ngữ tương ứng: "vẫn ... chỉ cần có...” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của quân thù có thể làm lay chuyển được. “Trái tim” trong thơ Phạm Tiến Duật là một hình ảnh hoán dụ, tuy không mới mẻ nhưng đầy ý vị.
Đoạn thơ trên đây thể hiện rất thực, rất hay cách sống, cách nghĩ, cách cảm của những người chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh thời đánh Mỹ. Tình đồng đội, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính tỏa sáng vần thơ.
Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ... đều mang chất lính, thể hiện một hồn thơ trẻ trung phơi phới, tài hoa, anh hùng. Đoạn thơ trên đây là một tiếng ca của khúc tráng ca Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
dapandethi.vn